Cùng là mặt hàng xăng dầu nhưng sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất lại phải chịu mức thuế 20%, cao hơn tới 10% so với sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ Hàn Quốc. Và điều này dẫn tới việc giá sản phẩm xăng của nhà máy cao hơn 4,87 USD/thùng so với giá sản phẩm xăng từ Hàn Quốc. Dung Quất vì thế gặp khó, sản phẩm của Dung Quất khó tiêu thụ cũng là điều tất yếu. Vậy nên, việc Dung Quất phản ánh những khó khăn này đến các cơ quan chức năng là điều cần thiết cho sự tồn tại của nhà máy cũng như sự phát triển bền vững của một lĩnh vực năng lượng của quốc gia.
Trước tiên phải khẳng định, trong số các sản phẩm năng lượng hiện nay, mặt hàng xăng dầu chỉ xếp sau mặt hàng điện về mức độ “nhạy cảm” đối với các hoạt động của nền kinh tế. Và nếu ví điện là “máu” nuôi sống “cơ thể” là nền kinh tế, là đầu vào của hầu hết các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh thì xăng dầu cũng là thứ “thức ăn” không thể thiếu để “cơ thể” đó “sống, vận được”. Điều này đã được khẳng định trong những năm gần đây khi giá xăng dầu tăng hay giảm luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội và tạo lên những tác động nhất định đối với các hoạt động của nền kinh tế.
Xăng dầu vì thế là mặt hàng chiến lược, có vị trí quan trọng trong cơ cấu các nguồn năng lượng quốc gia - nền tảng phát triển bền vững của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ. Cũng chính bởi tầm quan trọng như vậy nên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng từng đánh giá, việc đưa NMLD Dung Quất vào hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, khẳng định việc lựa chọn địa điểm và xây dựng nhà máy là một quyết định đầu tư đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra cũng phải nhìn nhận rằng, sự tồn tại và phát triển của Dung Quất trong bối cảnh giá dầu xuống thấp như hiện nay sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Giá dầu thô xuống thấp khiến thu ngân sách từ hoạt động xuất khẩu dầu thô cũng giảm mạnh. Chính vì vậy, việc phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, chế biến sâu các sản phẩm từ dầu thô thì ngoài việc góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia còn làm gia tăng giá trị của mặt hàng này, qua đó đóng góp lớn hơn vào ngân sách quốc gia. Và điều này cũng sẽ cụ thể hóa mục tiêu sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên quốc gia mà Đảng, Chính phủ đã khẳng định trong rất nhiều văn kiện, nghị quyết… của Đảng, các luật và các quyết định, nghị định của Chính phủ…
Vai trò của NMLD Dung Quất trong nền kinh tế như vậy đã rõ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực thì những cơ chế, chính sách đối với nhà máy cũng xuất hiện nhiều vấn đề bất cập. Giá xăng dầu được vận hành theo cơ chế giá thị trường nhưng hoạt động của Dung Quất lại không được theo cơ chế thị trường. Sản phẩm của Dung Quất vì thế đang chịu sự cạnh tranh thiếu công bằng từ các sản phẩm nhập khẩu cùng loại khiến việc tiêu thụ khó khăn, nguy cơ nhà máy dừng hoạt động là rõ ràng.
Thực tế tìm hiểu của Năng lượng Mới cho thấy, ngày 16-12-2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 201/2015/TT-BTC về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 2015-2018. Và theo hiệp định này, các sản phẩm xăng của NMLD Dung Quất hiện đang áp mức thuế nhập khẩu ưu đãi là 20% sẽ cao hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với các sản phẩm xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc hiện đang áp dụng là 10%. Với mức thuế suất như vậy, sản phẩm xăng của Dung Quất sẽ cao hơn 4,87 USD/thùng so với xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc theo đơn giá trung bình của tháng 1-2016 với mặt hàng xăng. Việc này theo BSR đã gây khó khăn rất lớn đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của Dung Quất và nếu không có sự điều chỉnh hợp lý thì áp lực lên việc tiêu thụ sản phẩm sẽ là rất lớn. Và thực tế, ngay sau khi thông tư trên được ban hành, Petrolimex đã đề nghị BSR có phương án giảm giá xăng bán bổ sung và giá dài hạn cho 6 tháng cuối năm để ngang bằng với giá mặt hàng xăng nhập khẩu.
Trong khi đó, thời gian qua, mặc dù Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BRS) đã nỗ lực đàm phán, giảm giá bán (mức phụ phí đối với dầu DO áp dụng 6 tháng đầu năm 2016 mà BRS đề xuất đã thấp hơn 1,3 USD/thùng so với 6 tháng cuối năm 2015), chia sẻ lợi nhuận với khách hàng nhưng các khách hàng cũng chỉ đồng ý áp dụng với thời hạn 2-3 tháng đầu năm 2016 và giảm khối lượng đăng ký mua. Đáng chú ý trong đó là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) - khách hàng lớn nhất của Dung Quất - chỉ đồng ý áp dụng mức phụ phí trên cho 2 tháng đầu năm 2016 với khối lượng DO giảm từ 120.000m3/tháng xuống 80.000m3/tháng theo hợp đồng năm 2016.
Và để đảm bảo việc cung cấp hàng hóa cho các tháng sau tết không bị gián đoạn, BSR đã đàm phán với Petrolimex và các khách hàng lớn về phụ phí cho các tháng tiếp theo. Tuy nhiên, trong bối cảnh chưa có sự điều chỉnh về thuế suất nhập khẩu ưu đãi đối với các sản phẩm của BSR nên tất cả các khách hàng đã đề nghị BSR tiếp tục giảm giá. Điều đó dẫn đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của BSR của năm 2016 gặp nhiều rủi ro.
Mới đây, trong văn bản gửi Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Văn phòng Chính phủ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng nêu rõ: Trong cơ cấu sản phẩm của NMLD Dung Quất, xăng dầu chiếm hơn 90% tổng sản lượng sản phẩm của toàn nhà máy nên việc không tiêu thụ được sản phẩm xăng dầu sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận hành an toàn của nhà máy và hiệu quả sản xuất - kinh doanh của BSR. Mặt khác với mức chênh lệch thuế suất quá lớn như hiện nay sẽ dẫn đến việc các khách hàng đầu mối tập trung nhập khẩu với chi phí vận chuyển và phụ phí cao, sản phẩm của NMLD Dung Quất dù đã giảm mức phụ phí cũng không thể cạnh tranh được.
Trước những vấn đề cấp bách trên, chiều 23-2, ông Phạm Đình Thi - Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) cho hay, Bộ Tài chính đã nhận được thông tin phản hồi về vấn đề thuế đối với mặt hàng xăng của NMLD Dung Quất và bộ đang theo dõi, nghiên cứu để có ý kiến xử lý.
Cũng theo ông Thi thì quan điểm của Bộ là sẽ “xem xét để đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên”.
Phản hồi của Bộ Tài chính về vấn đề thuế đối với các sản phẩm của Dung Quất như vậy là rất tích cực. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường thì việc chậm trễ trong việc xem xét, điều chỉnh chính sách thuế đối với các sản phẩm của một doanh nghiệp đặc thù như Dung Quất sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Mà điều hiển hiện rõ nhất là mốc thời gian 2-3 tháng đầu năm theo các hợp đồng mua sản phẩm của khách hàng với Dung Quất đã và sắp hết. Điều này đồng nghĩa, hết tháng 2 hoặc tháng 3, nhiều khách hàng của Dung Quất có thể sẽ không tiếp tục tiêu thụ sản phẩm của nhà máy nếu như giá không giảm.
Không bán được sản phẩm, tồn kho tăng cao, trong khi kho chứa của Dung Quất chắc chắn có hạn thì việc nhà máy tạm ngừng sản xuất hay giảm công suất là điều hiển nhiên!
Chủ tịch HĐTV BSR Nguyễn Hoài Giang khi đề cập tới câu chuyện này đã chia sẻ rằng, cho tới lúc này NMLD Dung Quất vẫn hoạt động ổn định với 100% công suất, nhưng sắp tới nếu chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi dành cho sản phẩm của nhà máy không thay đổi, nguy cơ đóng Dung Quất là có thật.
Đáng lo ngại hơn, trong khi Dung Quất đang chịu áp lực cạnh tranh thiếu công bằng từ mặt hàng xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc và vẫn chưa được giải quyết thì theo ông Giang, thời gian tới, khi Hiệp định Thương mại với Nhật Bản được triển khai, sản phẩm xăng nhập khẩu từ Nhật Bản cũng sẽ có mức thuế nhập khẩu là 10%.
Áp lực cạnh tranh như vậy sẽ lớn hơn rất nhiều và nguy cơ đóng cửa, tạm ngừng sản xuất của Dung Quất vì thế cũng tăng lên gấp bội.
Nói vậy để thấy rằng, Dung Quất đang phải đối diện với vô vàn khó khăn - những khó khăn đến từ cơ chế, chính sách chứ không phải đến từ quá trình quản lý, vận hành nhà máy. Tuy nhiên, điều này đã không được các cơ quan báo chí truyền thông nhìn nhận một cách khách quan, công bằng. Thậm chí trong nhiều bài viết còn cho rằng, đây là cái cách để Dung Quất đòi cơ chế, đòi chính sách. Nhưng thử hỏi, trong nền kinh tế thị trường, có doanh nghiệp nào có thể tồn tại khi phải chịu sự cạnh tranh thiếu công bằng như vậy hay không. Chắc chắn là không.
Thứ nữa, có ai nhìn nhận sự ra đời của Dung Quất có tầm quan trọng như thế nào trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước của Đảng, Nhà nước, hướng tới đưa nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020 hay không. Mà như đã nói ở trên, xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vị trí quan trọng trong cơ cấu nguồn năng lượng. Đảm bảo an ninh năng lượng thì có nghĩa sẽ đảm bảo nền tảng phát triển bền vững cho quốc gia, vùng lãnh thổ. Mà để có được điều đó, phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, làm ra các sản phẩm xăng dầu, giảm thiểu phụ thuộc vào sản phẩm nhập khẩu là điều kiện kiên quyết.
Nguy cơ Dung Quất phải đóng cửa như vậy là hiển hiện và điều đáng nói là nguy cơ đó lại đang đến từ sự bất cập của chính sách. Đúng là hoạt động của một doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quản trị doanh nghiệp, tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động… như ông Thi nói nhưng Dung Quất có đòi ưu đãi, có đòi hỗ trợ gì đâu.
Dung Quất chỉ cần sự công bằng, bình đẳng trong chính sách thuế giữa các sản phẩm của nhà máy với các sản phẩm nhập khẩu và điều này là cấp bách, là không thể chậm trễ đối với hoạt động của nhà máy trong thời gian tới!
Câu chuyện ở NMLD Dung Quất những ngày qua vì thế rất cần các nhà hoạch định chính sách, dư luận xã hội nhìn nhận và chia sẻ một cách công tâm nhất!
Xăng dầu vì thế là mặt hàng chiến lược, có vị trí quan trọng trong cơ cấu các nguồn năng lượng quốc gia - nền tảng phát triển bền vững của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ. Cũng chính bởi tầm quan trọng như vậy nên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng từng đánh giá, việc đưa NMLD Dung Quất vào hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, khẳng định việc lựa chọn địa điểm và xây dựng nhà máy là một quyết định đầu tư đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra cũng phải nhìn nhận rằng, sự tồn tại và phát triển của Dung Quất trong bối cảnh giá dầu xuống thấp như hiện nay sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Giá dầu thô xuống thấp khiến thu ngân sách từ hoạt động xuất khẩu dầu thô cũng giảm mạnh. Chính vì vậy, việc phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, chế biến sâu các sản phẩm từ dầu thô thì ngoài việc góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia còn làm gia tăng giá trị của mặt hàng này, qua đó đóng góp lớn hơn vào ngân sách quốc gia. Và điều này cũng sẽ cụ thể hóa mục tiêu sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên quốc gia mà Đảng, Chính phủ đã khẳng định trong rất nhiều văn kiện, nghị quyết… của Đảng, các luật và các quyết định, nghị định của Chính phủ…
Thực tế tìm hiểu của Năng lượng Mới cho thấy, ngày 16-12-2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 201/2015/TT-BTC về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 2015-2018. Và theo hiệp định này, các sản phẩm xăng của NMLD Dung Quất hiện đang áp mức thuế nhập khẩu ưu đãi là 20% sẽ cao hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với các sản phẩm xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc hiện đang áp dụng là 10%. Với mức thuế suất như vậy, sản phẩm xăng của Dung Quất sẽ cao hơn 4,87 USD/thùng so với xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc theo đơn giá trung bình của tháng 1-2016 với mặt hàng xăng. Việc này theo BSR đã gây khó khăn rất lớn đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của Dung Quất và nếu không có sự điều chỉnh hợp lý thì áp lực lên việc tiêu thụ sản phẩm sẽ là rất lớn. Và thực tế, ngay sau khi thông tư trên được ban hành, Petrolimex đã đề nghị BSR có phương án giảm giá xăng bán bổ sung và giá dài hạn cho 6 tháng cuối năm để ngang bằng với giá mặt hàng xăng nhập khẩu.
Trong khi đó, thời gian qua, mặc dù Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BRS) đã nỗ lực đàm phán, giảm giá bán (mức phụ phí đối với dầu DO áp dụng 6 tháng đầu năm 2016 mà BRS đề xuất đã thấp hơn 1,3 USD/thùng so với 6 tháng cuối năm 2015), chia sẻ lợi nhuận với khách hàng nhưng các khách hàng cũng chỉ đồng ý áp dụng với thời hạn 2-3 tháng đầu năm 2016 và giảm khối lượng đăng ký mua. Đáng chú ý trong đó là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) - khách hàng lớn nhất của Dung Quất - chỉ đồng ý áp dụng mức phụ phí trên cho 2 tháng đầu năm 2016 với khối lượng DO giảm từ 120.000m3/tháng xuống 80.000m3/tháng theo hợp đồng năm 2016.
Và để đảm bảo việc cung cấp hàng hóa cho các tháng sau tết không bị gián đoạn, BSR đã đàm phán với Petrolimex và các khách hàng lớn về phụ phí cho các tháng tiếp theo. Tuy nhiên, trong bối cảnh chưa có sự điều chỉnh về thuế suất nhập khẩu ưu đãi đối với các sản phẩm của BSR nên tất cả các khách hàng đã đề nghị BSR tiếp tục giảm giá. Điều đó dẫn đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của BSR của năm 2016 gặp nhiều rủi ro.
Mới đây, trong văn bản gửi Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Văn phòng Chính phủ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng nêu rõ: Trong cơ cấu sản phẩm của NMLD Dung Quất, xăng dầu chiếm hơn 90% tổng sản lượng sản phẩm của toàn nhà máy nên việc không tiêu thụ được sản phẩm xăng dầu sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận hành an toàn của nhà máy và hiệu quả sản xuất - kinh doanh của BSR. Mặt khác với mức chênh lệch thuế suất quá lớn như hiện nay sẽ dẫn đến việc các khách hàng đầu mối tập trung nhập khẩu với chi phí vận chuyển và phụ phí cao, sản phẩm của NMLD Dung Quất dù đã giảm mức phụ phí cũng không thể cạnh tranh được.
Trước những vấn đề cấp bách trên, chiều 23-2, ông Phạm Đình Thi - Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) cho hay, Bộ Tài chính đã nhận được thông tin phản hồi về vấn đề thuế đối với mặt hàng xăng của NMLD Dung Quất và bộ đang theo dõi, nghiên cứu để có ý kiến xử lý.
Cũng theo ông Thi thì quan điểm của Bộ là sẽ “xem xét để đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên”.
Phản hồi của Bộ Tài chính về vấn đề thuế đối với các sản phẩm của Dung Quất như vậy là rất tích cực. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường thì việc chậm trễ trong việc xem xét, điều chỉnh chính sách thuế đối với các sản phẩm của một doanh nghiệp đặc thù như Dung Quất sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Mà điều hiển hiện rõ nhất là mốc thời gian 2-3 tháng đầu năm theo các hợp đồng mua sản phẩm của khách hàng với Dung Quất đã và sắp hết. Điều này đồng nghĩa, hết tháng 2 hoặc tháng 3, nhiều khách hàng của Dung Quất có thể sẽ không tiếp tục tiêu thụ sản phẩm của nhà máy nếu như giá không giảm.
Không bán được sản phẩm, tồn kho tăng cao, trong khi kho chứa của Dung Quất chắc chắn có hạn thì việc nhà máy tạm ngừng sản xuất hay giảm công suất là điều hiển nhiên!
Chủ tịch HĐTV BSR Nguyễn Hoài Giang khi đề cập tới câu chuyện này đã chia sẻ rằng, cho tới lúc này NMLD Dung Quất vẫn hoạt động ổn định với 100% công suất, nhưng sắp tới nếu chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi dành cho sản phẩm của nhà máy không thay đổi, nguy cơ đóng Dung Quất là có thật.
Đáng lo ngại hơn, trong khi Dung Quất đang chịu áp lực cạnh tranh thiếu công bằng từ mặt hàng xăng nhập khẩu từ Hàn Quốc và vẫn chưa được giải quyết thì theo ông Giang, thời gian tới, khi Hiệp định Thương mại với Nhật Bản được triển khai, sản phẩm xăng nhập khẩu từ Nhật Bản cũng sẽ có mức thuế nhập khẩu là 10%.
Áp lực cạnh tranh như vậy sẽ lớn hơn rất nhiều và nguy cơ đóng cửa, tạm ngừng sản xuất của Dung Quất vì thế cũng tăng lên gấp bội.
Nói vậy để thấy rằng, Dung Quất đang phải đối diện với vô vàn khó khăn - những khó khăn đến từ cơ chế, chính sách chứ không phải đến từ quá trình quản lý, vận hành nhà máy. Tuy nhiên, điều này đã không được các cơ quan báo chí truyền thông nhìn nhận một cách khách quan, công bằng. Thậm chí trong nhiều bài viết còn cho rằng, đây là cái cách để Dung Quất đòi cơ chế, đòi chính sách. Nhưng thử hỏi, trong nền kinh tế thị trường, có doanh nghiệp nào có thể tồn tại khi phải chịu sự cạnh tranh thiếu công bằng như vậy hay không. Chắc chắn là không.
Thứ nữa, có ai nhìn nhận sự ra đời của Dung Quất có tầm quan trọng như thế nào trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước của Đảng, Nhà nước, hướng tới đưa nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020 hay không. Mà như đã nói ở trên, xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vị trí quan trọng trong cơ cấu nguồn năng lượng. Đảm bảo an ninh năng lượng thì có nghĩa sẽ đảm bảo nền tảng phát triển bền vững cho quốc gia, vùng lãnh thổ. Mà để có được điều đó, phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, làm ra các sản phẩm xăng dầu, giảm thiểu phụ thuộc vào sản phẩm nhập khẩu là điều kiện kiên quyết.
Nguy cơ Dung Quất phải đóng cửa như vậy là hiển hiện và điều đáng nói là nguy cơ đó lại đang đến từ sự bất cập của chính sách. Đúng là hoạt động của một doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quản trị doanh nghiệp, tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động… như ông Thi nói nhưng Dung Quất có đòi ưu đãi, có đòi hỗ trợ gì đâu.
Dung Quất chỉ cần sự công bằng, bình đẳng trong chính sách thuế giữa các sản phẩm của nhà máy với các sản phẩm nhập khẩu và điều này là cấp bách, là không thể chậm trễ đối với hoạt động của nhà máy trong thời gian tới!
Câu chuyện ở NMLD Dung Quất những ngày qua vì thế rất cần các nhà hoạch định chính sách, dư luận xã hội nhìn nhận và chia sẻ một cách công tâm nhất!
Thanh Ngọc
Nguồn:Năng lượng Mới số 500
Nguồn:Năng lượng Mới số 500
Relate Threads