Theo một nghiên cứu mới đăng trên tờ Khoa học và Công nghệ Môi trường ngày 21/2/2017, hàng năm có từ 2 đến 16% các giếng khoan bằng công nghệ nứt vỉa thủy lực bị tràn dầu khí, nước nhiễm hoá chất, dung dịch nứt vỉa và các hóa chất khác.
Tổng cộng trong khoảng thời gian 10 năm (2005-2014) đã có đến 6.648 vụ tràn dầu xảy ra ở 4 tiểu bang Colorado, New Mexico, Bắc Dakota và Pennsylvania của Mỹ.
Trong đó, Bắc Dakota là bang có tỷ lệ tràn dầu cao nhất với 4.453 vụ, tiếp đến là bang Pennsylvania với 1.293 vụ, Colorado có 476 vụ và New Mexico có 426 vụ. Tuy nhiên, số lượng các vụ tràn dầu báo cáo tại mỗi bang phụ thuộc vào mức độ yêu cầu báo cáo tràn dầu đặt ra tại bang đó. Ví dụ, Bắc Dakota yêu cầu báo cáo các sự cố tràn dầu ở mức ~42 gallon, thấp hơn so với bang Colorado và New Mexico (~210 gallon).
Kết quả nghiên cứu trên cao hơn con số vụ tràn dầu mà Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ đưa ra là 457 vụ do EPA chỉ tính đến công đoạn nứt vỉa thủy lực trong toàn bộ quy trình khai thác dầu khí phi truyền thống.
Theo đó, các nhà nghiên cứu đã phân tích trên dữ liệu tràn dầu liên bang và chỉ ra mối liên hệ giữa các vụ tràn dầu với việc phát triển dầu khí phi truyền thống tại 31.481 giếng khoan bằng công nghệ nứt vỉa thủy lực. Trong đó, 50% vụ tràn dầu có liên quan tới hoạt động tồn trữ và vận chuyển chất lỏng trên đường ống và mức độ rủi ro tràn dầu là cao nhất nằm ở giai đoạn 3 năm đầu của giếng khoan, khi tiến hành nứt vỉa thủy lực và khi sản lượng khai thác đạt ở mức đỉnh.
Tổng cộng trong khoảng thời gian 10 năm (2005-2014) đã có đến 6.648 vụ tràn dầu xảy ra ở 4 tiểu bang Colorado, New Mexico, Bắc Dakota và Pennsylvania của Mỹ.
Kết quả nghiên cứu trên cao hơn con số vụ tràn dầu mà Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ đưa ra là 457 vụ do EPA chỉ tính đến công đoạn nứt vỉa thủy lực trong toàn bộ quy trình khai thác dầu khí phi truyền thống.
Theo đó, các nhà nghiên cứu đã phân tích trên dữ liệu tràn dầu liên bang và chỉ ra mối liên hệ giữa các vụ tràn dầu với việc phát triển dầu khí phi truyền thống tại 31.481 giếng khoan bằng công nghệ nứt vỉa thủy lực. Trong đó, 50% vụ tràn dầu có liên quan tới hoạt động tồn trữ và vận chuyển chất lỏng trên đường ống và mức độ rủi ro tràn dầu là cao nhất nằm ở giai đoạn 3 năm đầu của giếng khoan, khi tiến hành nứt vỉa thủy lực và khi sản lượng khai thác đạt ở mức đỉnh.
Trung tâm Đào tạo và Thông tin Dầu khí (CPTI)
Relate Threads