Phân tích thị trường dầu mỏ năm 2018

Oil Gas Vietnam

Administrator
Thành viên BQT
Sự quay trở lại của phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị kết hợp với sức mạnh của nhu cầu tiêu thụ toàn cầu và tuân thủ tiếp tục của OPEC đã khiến Brent tăng lên mức cao nhất trong hai năm vào cuối năm 2017. Hơn nữa, tình trạng của thị trường vào cuối năm cho thấy các nỗ lực bền vững của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã có một tác động hữu hình đối với sự cân bằng cung cầu. Khi kết hợp với số liệu về nhu cầu tốt hơn dự kiến, nền tảng được cung cấp bởi OPEC đã trở thành bàn đạp cho mức giá cao hơn vào cuối năm 2017. 2018 tiếp tục xu hướng tăng cuối năm 2017, còn với Brent phá vỡ mức 70 đô la trong một thời gian ngắn, một mức giá không thể nào có được khoảng 6 tháng trước. Liệu mức giá này có được duy trì cho đến hết năm 2018? Hay sự tăng trưởng của nguồn cung ngoài OPEC sẽ phá hủy nỗ lực của nhóm?

Price.jpg

Triển vọng kinh tế vĩ mô

Tăng trưởng nhu cầu dầu chủ yếu là một chức năng của sự mở rộng kinh tế vĩ mô trong các khu vực tiêu thụ dầu mỏ. Trong số các nền kinh tế phát triển, triển vọng tăng trưởng kinh tế của châu Âu được cho là tích cực. Và mặc dù Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) dự kiến sẽ bắt đầu chính sách bình thường hóa tiền tệ, nhưng một quá trình dần dần sẽ không tạo ra một nguy cơ cho sự tăng trưởng.

Trong khi đó, tăng trưởng ở Mỹ sẽ vẫn duy trì trên tiềm năng cho đến giữa năm 2018, bất chấp thiệt hại gây ra bởi điều kiện thời tiết bất lợi. Thực tế, khi Fed tiếp tục chu kỳ tăng lãi suất, một thị trường lao động thắt chặt sẽ dẫn đến tăng trưởng nhẹ trong tiền lương; sẽ có thêm hai đợt tăng lãi suất nữa dự kiến sẽ diễn ra trong năm 2018. Công cuộc cải cách thuế của Tổng thống Donald Trump sẽ thúc đẩy đầu tư và tăng tiêu thụ, điều này là tích cực cho nhu cầu dầu.

Triển vọng cho các nền kinh tế mới nổi cũng tích cực khi kinh tế thế giới hồi phục kể từ quý 4 năm 2016 tiếp tục nâng cao lưu lượng thương mại. Ở châu Á, tăng trưởng ở Ấn Độ và Indonesia, đặc biệt, dự kiến sẽ tăng tốc, với Trung Quốc đang tăng trưởng ở mức thấp hơn.

Ở châu Mỹ Latinh, câu chuyện có phần khác nhau. Tăng trưởng khu vực sẽ đạt 2,1% vào năm 2018 nhưng điều này có thể bị đe dọa bởi rủi ro chính trị vì lịch trình bận rộn của các cuộc bầu cử đang chờ đợi Argentina, Chile, Columbia, Mexico, Brazil và Venezuela.

Cuối cùng, trong khi tất cả các nền kinh tế Trung Âu đều có mức GDP cao trong năm 2017 - chủ yếu là do tăng tiền lương tăng và các chính sách ngân hàng trung ương thuận lợi – tăng trưởng có thể bắt đầu chậm lại trong năm 2018 do lạm phát và vốn của chính phủ sẽ hạn chế nhu cầu tiêu thụ với các chính sách kích thích kinh tế bắt đầu giảm dần.

Nguồn cung Dầu

Thị trường dầu mỏ trong nửa đầu năm 2017 bị chi phối bởi cung của cán cân cung cầu, khi OPEC loại bỏ nguồn cung thông qua việc hợp tác cắt giảm sản xuất, trong khi các nhà sản xuất Mỹ triển khai giàn khoan ở mức kỷ lục. Kết quả là, một loạt đồn đoán "OPEC gây chiến với đá phiế sét Mỹ" đã được phát triển trên thị trường.

Không cần phải nói rằng trong năm 2018, sự tuân thủ của OPEC và mức độ hoạt động của các công ty tư nhân của Mỹ sẽ được giám sát chặt chẽ. Mặc dù năm 2017 được đánh dấu bằng việc tăng trưởng nguồn cung ngoài OPEC, đặc biệt ở Mỹ, một phân tích chi tiết về các dự án thượng nguồn quan trọng trên toàn cầu cho thấy một làn sóng ngoài Mỹ, ngoài OPEC sẽ tiền vào thị trường trong năm 2018. Do đó, việc cắt giảm sản lượng của OPEC đã nhất trí hồi tháng 11/2017 sẽ dài một năm (cho đến cuối năm 2018) sẽ vẫn rất quan trọng để đạt được cân bằng thị trường trong năm nay.

Ngoài OPEC

Nguồn cung ngoài OPEC chủ yếu do sự gia tăng hoạt động của Mỹ - là biến số bất ngờ chính cho thị trường dầu mỏ trong năm 2017. Không thể hành động như một tập thể để tác động đến thị trường, nguồn cung ngoài OPEC phản ứng mạnh hơn với điều kiện thị trường hiện tại.

Tuy nhiên, do thời gian trì trệ giữa việc phê duyệt dự án và sản xuất (từ hai năm đến năm năm, tùy thuộc vào vị trí và mức độ phức tạp), sản xuất truyền thống thường bị tách khỏi các điều kiện thị trường mà nó được phê duyệt. Các dự án như vậy sẽ là một động lực chính cảu tăng trưởng cung ngoài OPEC vào năm 2018, với những xu hướng tăng nổi bật từ Mỹ (Vịnh Mexico), Brazil (Tiền muối) và Canada (cát dầu).

Tất nhiên, triển vọng cho toàn bộ thị trường năm 2018 là ở mức độ lớn phụ thuộc vào phản ứng của các nhà sản xuất đá phiến của Mỹ đối với đà tăng giá trong Q4 2017. Mặc dù sản lượng dự kiến sẽ tăng trở lại vào năm 2018, nhưng mức độ chính xác vẫn chưa rõ. Bằng cách xem xét mối tương quan giữa các chỉ số thượng nguồn khác nhau với giá WTI thực tế, số lượng giàn khoan phản ứng với giá cao hơn với độ trễ trong ba tháng. Về cung, sự tăng trưởng chính từ mức tăng giá đến quý 4 năm 2017 chắc chắn sẽ đến vào cuối quý 2, cho đến đầu quý 3 năm sau (tháng 5-7).

Về mức độ tăng trưởng cung, một môi trường giá cả thuận lợi và hoạt động hedge giá mạnh mẽ sẽ thách thức chống lại sản lượng giảm (do nhà sản xuất di chuyển ra khỏi phần diện tích năng suất cao), lạm phát chi phí dịch vụ và nhu cầu tăng cường sử dụng vốn hiệu quả từ các cổ đông.

Nguồn cung OPEC

Được coi là những người canh gác giá dầu, sự gia tăng của đá phiến của Mỹ đã làm giảm bớt ảnh hưởng của OPEC trên thị trường toàn cầu trong những năm gần đây. Thật vậy, kể từ sự nổi lên của dầu thô Mỹ, OPEC không còn là nhà cung cấp duy nhất có thể thay đổi sản xuất trong một khoảng thời gian nhanh chóng. Tuy nhiên, nhóm vẫn chịu trách nhiệm cho 35% tổng nguồn cung trên thế giới. Và thực tế này - kết hợp với khả năng của nhóm hoạt động một cách thống nhất (về mặt lý thuyết) - có nghĩa là OPEC vẫn là một lực lượng chính trong thị trường dầu mỏ.

Do đó, thị trường này vẫn nhạy cảm với các quyết định của OPEC - và đó là thỏa thuận hạn chế sản xuất vào cuối năm 2016, vốn đóng góp lớn vào sự hồi phục của Brent. Hơn nữa, sự tuân thủ đã đặc biệt mạnh mẽ so với các thỏa thuận OPEC trước đó - với sự hỗ trợ của Saudi Arabia, đặc biệt, hoạt động như một nền tảng của thỏa thuận.

Quyết định mở rộng cắt giảm của OPEC vào cuối năm 2018 đã tạo ra một mức sàn cho giá dầu, cho phép đà tăng hiện tại. Sự chú ý bây giờ đang hướng đến thời điểm kết thúc thỏa thuậ; mặc dù chiến lược rút khỏi của OPEC thường được thảo luận, nhưng nguồn lực tiềm năng của sản xuất mới có thể tăng nhanh khi thoả thuận kết thúc, có thể quan trọng hơn đối với giá cả trong năm 2019.

Iran: một môi trường đầy thách thức

Kể từ cuộc cách mạng Iran, các đợt trừng phạt liên tiếp đã làm hạn chế nghiêm trọng ngành công nghiệp dầu mỏ của Iran, mặc dù quốc gia này đang nắm giữ trữ lượng dầu lớn thứ tư trên thế giới.

Kể từ khi lệnh trừng phạt được gỡ bỏ, sản lượng của Iran đã tăng khoảng 1 triệu thùng/ngày, chủ yếu tăng trưởng đến từ các mỏ dầu ở miền nam. Khi các biện pháp trừng phạt được dỡ bỏ - và với việc tiếp cận với vốn và thiết bị nước ngoài - công ty dầu mỏ quốc gia của Iran (NIOC) đã nhanh chóng tăng cường sản xuất. Kết quả là nguồn cung và xuất khẩu đều tăng.

Cần có vốn đầu tư nước ngoài để giúp nước này tăng sản lượng vượt mức hiện tại. Tuy nhiên, bất chấp việc bãi bỏ trừng phạt quốc tế, Iran vẫn là một môi trường đầu tư đầy thử thách đối với các công ty quốc tế.

Với những lời chỉ trích của Tổng thống Trump về thỏa thuận hạt nhân, căng thẳng hiện tại trong khu vực vùng Vịnh với Saudi Arabia, và một loạt các biện pháp trừng phạt phức tạp vẫn đang được thực hiện, Iran đang đối mặt với một số trở ngại lớn. Vì lý do này, trong ngắn hạn, sản lượng dầu của nước này khó có thể tăng cao hơn nữa.

Tăng trưởng bị kềm hãm ở Iraq

Iraq có tiềm năng sản xuất đáng kể, có khoảng 150 tỷ thùng trữ lượng dầu đã được chứng minh - lớn thứ năm trên thế giới. Tuy nhiên, cuộc chiến kéo dài năm 2017 chống lại Nhà nước Hồi giáo (IS), cũng như căng thẳng nội bộ với khu vực tự trị người Kurd, đã cản trở việc mở rộng sản lượng dầu của Iraq.

Mặc dù sản lượng đã trên đà tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2015 và 2016- với Iraq là một trong những nước đóng góp chính cho tăng trưởng nguồn cung OPEC trong những năm này - chi phí để chống lại cuộc nổi dậy và sự sụp đổ của giá dầu thế giới đã dẫn tới việc cắt giảm đáng kể chi tiêu của chính phủ trong vài năm gần đây.

Vào tháng 9 năm 2015, chính phủ Iraq yêu cầu các công ty dầu khí quốc ết (IOC) đang hoạt động trong nước giảm chi tiêu phát triển giai đoạn 2016-2017 của họ - với nguyên nhân là do giá dầu và doanh thu của chính phủ giảm. Điều này đã dẫn đến việc nhiều công ty cắt giảm ước tính sản lượng đỉnh điểm trong giai đoạn phát triển của họ.

Với các mỏ dầu của Iraq đang có tỷ lệ suy giảm rất cao - và do chi phí vốn thấp hơn - sản lượng có thể sẽ không đi ngang trong suốt năm 2018, với việc tăng sản lượng sẽ không xảy ra khi thoả thuận của OPEC kết thúc.

Saudi Arabia: một đối thủ chính chính

Là nhà sản xuất lớn nhất của OPEC và một phần của thị trường xuất khẩu đến phương Tây, Saudi Arabia kiểm soát hầu hết lực lượng địa chính trị của tất cả các thành viên OPEC. Hiểu rõ được các mục tiêu của đất nước này về kinh tế và địa chính trị là điều cực kỳ quan trọng để hiểu được tính năng động của nhóm và tác động tương ứng lên thị trường dầu mỏ nói chung.

Với Saudi Arabia gánh phần mức cắt giảm của OPEC, sản lượng dầu mỏ đã giảm 470.000 thùng/ngày trong năm 2017. Mức độ tuân thủ trung bình của Saudi Arabia là 125% trong quá trình diễn ra thỏa thuận. Bên cạnh việc giảm sản lượng trong năm 2017, xuất khẩu cũng giảm, đặc biệt là đến Mỹ. Điều đó nói rằng, Saudi Arabia vẫn tiếp tục đầu tư vào năng lực dự phòng để bù đắp cho sự suy giảm trong các khu vực sản xuất trưởng thành và với những phát triển mới này, năng lực sẽ vẫn tương đối ổn định.

Mặc dù nỗ lực giảm sự phụ thuộc, dầu vẫn tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Saudi Arabia đến nay. Từ năm 2010 đến năm 2017, doanh thu ngoài dầu mỏ chỉ chiếm 15% tổng chi tiêu. Nỗ lực mới nhất của quốc gia này nhằm giảm bớt sự phụ thuộc được gọi là Tầm nhìn năm 2030, một chương trình cải cách rộng rãi nhằm tăng cường nguồn thu phi dầu mỏ lên đến 50% GDP vào năm 2030.

Chìa khóa cho thành công của chiến lược này sẽ là Thái tử Saudi, Mohammad Bin Salman, người được nhiều người coi là một nhà cải cách. Đây là một vị trí đã được củng cố hoá kể từ những sự kiện ngày 4 tháng 11 - đã chứng kiến một số tầng lớp tinh hóa của Saudi bị bắt sau cuộc đàn áp chống tham nhũng, nguyên nhân của việc đưa phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị dầu mỏ quay trở lại.

Việc đòi hỏi mức chi tiêu liên tục cao đối với các khoản trợ cấp trong nước cũng như các cam kết quân sự ở Yemen, Saudi Arabia đã gặp nhiều khó khăn trong việc giảm chi tiêu trong môi trường giá dầu thấp. Giữa năm 2014 và năm 2017, Saudi Arabia đã chứng kiến sự suy giảm lớn nhất trong dự trữ ngoại hối của tất cả các thành viên OPEC, với tổng mức dự trữ trong điều kiện tuyệt đối giảm khoảng 236 tỷ USD. Năm 2017, Saudi Arabia là quốc gia duy nhất nhìn thấy dự trữ ngoại tệ của nước này sụt giảm hơn nữa, giảm thêm 27 tỷ USD trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017. Dự trữ tăng mạnh vào cuối năm 2017 do quốc gia này hưởng lợi từ giá dầu cao hơn.

Trong khi đất nước này có kế hoạch cải cách đáng kể, ít nhất trong tương lai gần Saudi Arabia vẫn phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ. Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của vương quốc này chính là hỗ trợ giá - với thỏa thuận OPEC hiện nay là phương tiện tốt nhất để làm như vậy. Do đó, khả năng Saudi Arabia sẽ làm tràn ngập thị trường dầu trong năm 2018 là gần như không thể.

Venezuela khiến công việc của OPEC dễ dàng hơn

Mặc dù thị trường lo lắng về việc tăng trưởng nguồn cung, thì có một thành viên của OPEC có nguy cơ giảm sản xuất nghiêm trọng trong năm 2018, điều này sẽ cho phép một số gian lận từ phần còn lại của nhóm. Venezuela bị mất khoảng 13% sản lượng trong năm 2017, với ước tính giảm thêm 300.000-400.000 thùng/ngày. Cơ sở hạ tầng dầu mỏ của Venezuela đòi hỏi phải được bảo trì, và các nhà máy lọc dầu trong nước có nhu cầu nhập khẩu dầu thô nhẹ để pha trộn nguồn cung nặng hơn của Venezuela để tiêu thụ trên thị trường toàn cầu. Tình hình kinh tế hiện nay đã dẫn đến việc các công ty dịch vụ dầu trì hoãn các hoạt động sản xuất và kéo theo khai thác bị trì trệ, làm cho tổn thất sản xuất cao hơn.

Nhu cầu năm 2018

Tăng trưởng toàn cầu NĂM 2017 ĐÃ nhận được hỗ trợ từ những khu vực không được kỳ vọng. Tăng trưởng từ những thị trường phát triển của OECD, ở châu Âu và Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho đà tăng giá dầu cuối năm 2017. Nhu cầu của Trung Quốc cũng tăng mạnh mặc dù Ấn Độ đã gây bất ngờ khi giảm tiêu thụ.

Châu Âu

Nhiều yếu tố đã thúc đẩy nhu cầu tăng trưởng ở châu Âu trong suốt năm 2017 sẽ cho thấy sự tạm thời. Trong khi giá nhiên liệu bán lẻ thấp đã là động lực chính cho sự tăng trưởng nhu cầu mạnh mẽ từ năm 2015, hiệu ứng này sẽ suy yếu trong suốt năm 2018 do giá nhiên liệu tăng do giá dầu cao hơn. Từ năm 2015, tăng trưởng nhu cầu dầu từ năm 2015 chủ yếu do các nền kinh tế phát triển trong khu vực Euro-5 (Pháp, Đức, Ý, Anh và Tây Ban Nha). Tuy nhiên, năm 2015 và 2016, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Lan đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể, đóng góp vào tăng trưởng là 350.000 thùng/ngày trong năm 2015 và 330.000 thùng/ngày trong năm 2016. Cả hai nước đều có vẻ chậm lại trong năm 2017 do phải đối mặt với tăng trưởng kinh tế thấp hơn và sự biến mất của các yếu tố ngắn hạn đã hỗ trợ tiêu thụ. Tổng mức tăng trưởng năm 2017 giảm xuống còn 235.000 thùng/ngày. Vì những lý do này, nhu cầu dầu của châu Âu được dự báo sẽ giảm xuống còn 50.000 thùng/ngày trong năm 2018 và có khả năng sẽ thu hẹp lại trong năm 2019.

Mỹ

Trong khi đó, tăng trưởng nhu cầu của Mỹ sẽ bị tác động từ nhiều hướng trong năm nay. Trong khi giá dầu cao hơn và giá nhiên liệu liên quan sẽ làm giảm nhu cầu đối với các nhiên liệu tiêu dùng như xăng và nhiên liệu máy bay, tăng trưởng kinh tế mạnh hơn dự kiến sẽ hỗ trợ tăng trưởng nhu cầu nhiên liệu chưng cất và dầu thô trong năm tới. Cải cách của Tổng thống Trump sẽ mang lại lợi ích cho ngành công nghiệp, với mức tiêu thụ chưng cất gia tăng khi các doanh nghiệp tăng sản lượng sản xuất.

Trung Quốc

Trung Quốc có lẽ là thị trường quan trọng nhất cho sự tăng trưởng nhu cầu dầu trên toàn thế giới. Thực tế, trong năm 2016, Trung Quốc chiếm 11,4% tăng trưởng nhu cầu toàn cầu, nhưng đến 22,9% tăng trưởng nhu cầu dầu thô toàn cầu. Sự chuyển đổi của Trung Quốc từ ngành công nghiệp nặng và đầu tư tài sản cố định sang tăng trưởng tiêu thụ là trọng tâm trong những năm gần đây và điều này cũng dẫn đến những thay đổi lớn trong nhu cầu sản phẩm dầu mỏ.

Nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc đã bị ảnh hưởng đáng kể bởi hai yếu tố khác: nhu cầu từ các nhà máy lọc dầu tư nhân, hoặc gọi là "ấm trà", và việc lấp đầy kho chứa chiến lược của Trung Quốc (SPR). Mặc dù hạn ngạch giảm trong năm 2017, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố vào ngày 8 tháng 11 năm 2017 rằng tăng hạn ngạch nhập khẩu khoảng 55%. Điều này cho thấy nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc sẽ vẫn mạnh mẽ trong suốt năm 2018.

Một yếu tố khác đã giữ nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc ở mức cao trong những năm gần đây là nhập khẩu dầu thô vào các kho chứa chiến lược. Là nhà nhập khẩu ròng dầu, Trung Quốc hiện đang trong giai đoạn hai của Kế hoạch 5 năm hiện tại, nhằm tăng công suất lên 250 triệu thùng. Mặc dù dữ liệu cho chương trình SRP của Trung Quốc còn hạn chế, nhưng cho thấy lượng dầu thô dư thừa ở Trung Quốc đã liên tục gia tăng so với cùng kỳ năm ngoái, điều này có thể là để làm đầy các kho SPR.

Trung Quốc cũng dự kiến sẽ đạt được sự tăng trưởng ấn tượng về nhu cầu dầu trong thập kỷ tới khi đất nước tiếp tục tốc độ phát triển ấn tượng.

Ấn Độ

Ngược lại với kỳ vọng, Ấn Độ đã phải hứng chịu sự trì trệ nhu cầu dầu mỏ vào năm 2017. Ba yếu tố dẫn tới nhu cầu dầu mỏ thấp bất thường trong năm 2017: Chính sách phi tiền tệ hóa của Modi làm giảm chi tiêu của người tiêu dùng, đợt lũ lụt tồi tệ vào tháng 8 và việc Thuế "Hàng hoá và Dịch vụ" (GST), thay thế cho một hệ thống thuế liên bang phức tạp. Về lâu dài, tuy nhiên, những yếu tố này sẽ không tác động đến tăng trưởng dài hạn. Chẳng hạn, GST sẽ đơn giản hóa thương mại giữa các khu vực và làm cho phí vận chuyển hàng hoá trở nên trơn tru hơn, - và việc thực hiện cơ cấu này sẽ làm tăng nhu cầu dầu. Hơn nữa, trong khi nhu cầu bị ảnh hưởng bởi chính sách phi tiền tệ hóa của Thủ tướng Modi, nhìn chung, nó đã hồi phục khi các tác động này tiêu tan.

Trong khi đó, nhu cầu về dầu diesel - sản phẩm dầu tiêu thụ nhiều nhất - đã trải qua sự tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây khi ngành sản xuất Ấn Độ mở rộng. Mặc dù nhu cầu về dầu diesel thường là theo mùa - với mùa mưa lớn kéo dầu diesel theo nhiều hướng khác nhau - trong dài hạn có thể sẽ nhìn thấy mức tiêu thụ hơn nữa. Điều này sẽ gắn liền với việc tiếp tục mở rộng sản xuất và sản xuất công nghiệp được minh họa bằng sáng kiến “Make in India” của Modi.

Những thay đổi về cơ cấu trong nền kinh tế Ấn Độ cũng sẽ hỗ trợ nhu cầu dầu diesel. Những vấn đề này bao gồm gia tăng cơ giới hóa ngành công nông nghiệp - một phần là do di cư - và GST dẫn tới sự gia tăng nhu cầu sử dụng xe tải hạng nặng và xe tải nhẹ sử dụng diesel.

Triển vọng thị trường cho năm 2018

Đối với năm 2018, cung và cầu sẽ cân bằng hơn so với năm 2017. Sự tăng trưởng nhu cầu sẽ vẫn mạnh mẽ khi nhu cầu của Ấn Độ hồi phục và các nhà máy tinh chế tư nhân của Trung Quốc tăng nhập khẩu dầu do hạn ngạch nhập khẩu cao hơn. Từ phía cung, việc mở rộng các biện pháp cắt giảm của OPEC sẽ chống sản lượng tăng từ các nước không thuộc OPEC.

Trong khi đó, phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc định giá. Mặc dù thị trường cuối cùng sẽ trở nên quen thuộc với hiện trạng mới tại Saudi Arabia, thì tranh cãi ngày càng gay cấn giữa Saudi Arabia và Iran vẫn là mối lo ngại đáng kể. Cả hai nước đều là những nước xuất khẩu dầu lớn và khoảng 20% lượng hàng xuất khẩu dầu mỏ toàn cầu chảy qua eo biển Hormuz, giáp biên giới giữa hai nước.

Brent dự kiến sẽ đạt mức trung bình 66 USD trong năm 2018 và 69 USD vào năm 2019. Dự báo chi tiết cho năm 2018, giá sẽ ngừng tăng lên trong nữa đầu năm do nhu cầu yếu hơn (do mùa bảo dưỡng nhà máy) và dữ liệu nguồn cung tiêu cực của Mỹ đang gây sức ép trên thị trường. Sự tăng trưởng nhu cầu mạnh mẽ trong suốt nữa cuối năm có thể sẽ hấp thụ sản lượng dư thừa từ các nhà sản xuất ngoài OPEC với giá dự kiến sẽ tăng cao hơn trong quý 3 và quý 4, chốt ở mức 69 USD. Chúng tôi dự đoán dầu sẽ giao dịch trong phạm vi 60-70 USD trong suốt năm nay.

Nguồn: xangdau.net/Joel Hancock, Natixis’ Oil Analyst.
 

Việc làm nổi bật

Top