Vì sao đất nước giàu dầu mỏ Venezuela lại đứng bên bờ vực phá sản?

Oil Gas Vietnam

Administrator
Thành viên BQT
Cứu cánh duy nhất cho cuộc khủng hoảng tại Venezuela là khả năng tiến hành một cuộc bầu cử sớm hơn hạn định.

Venezuela đã từng là một trong những nước giàu có nhất Nam Mỹ nhờ các vựa dầu mênh mang của mình song nay đang nhích dần đến sự đổ bể cả về kinh tế lẫn chính trị.

38570238_303_wlwy.jpg

Những siêu thị trống trơn hàng hoá và bệnh viện thiếu thuốc men đã đẩy người dân nước này đến cảnh cùng quẫn. Dưới đây là năm điểm chính lý giải những nguyên dẫn đến cuộc khủng hoảng do sống dựa vào dầu mỏ của nước này:

1. Cơ sự nào khiến một nước giàu dầu mỏ như Venezuela lại túng thiếu tiền mặt?

Sự thiếu đa dạng hoá kinh tế chính là nguyên nhân đằng sau những khó khăn kinh tế đang đeo đẳng nền kinh tế Venezuela.

Theo các số liệu năm 2015 của Tổ chức các Nước Sản xuất và Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), Venezuela có trữ lượng dầu thô đã được thăm dò và xác thực lớn nhất thế giới với trên 300 tỉ thùng. Con số này đã đưa Venezulea vượt Ả Rập Xê Út (266 tỉ thùng), Iran (158 tỉ thùng) và Iraq (142 tỉ thùng).

Có dầu không có nghĩa là có ngay tiền mặt trên thực tế, trong khi chính phủ Venezuela đã bội chi. Chính quyền của người tiền nhiệm Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro coi mặt hàng vàng đen này là điểm tựa chính của nền kinh tế: trên 90% kim ngạch xuất khẩu và một nửa doanh thu của nước này là từ dầu mỏ.

Và khi giá dầu mỏ trượt dốc từ 115 USD/thùng vào năm 2014 hiện nay xuống còn gần nửa mức giá này, Tổng Sản phẩm Quốc nội (GDP) Venezuela đã giảm 10%. Giá một thùng dầu kể từ năm ngoái cho đến nay lơ lửng ở mức 50 USD/thùng.

2. Dầu sẽ vô giá trị nếu không có công nghệ và chuyên môn

Giá dầu không phản ảnh được hết câu chuyện khủng hoảng kinh tế tại Venezuela. Chính sách lấy dầu mỏ làm nguồn thu chính của cựu Tổng thống Chavez càng trở nên tồi tệ hơn dưới thời Tổng thống Maduro, người đắc cử nhiệm kỳ đầu tiên vào năm 2013.

Công ty dầu quốc doanh Venezuela, Petróleos de Venezuela (PDVSA), đã tổ chức đình công vào năm 2002 sau khi vụ đảo chính để phế truất cựu Tổng thống Chavez bất thành. Sau vụ đảo chính này, ông Chavez đã sa thải 18000 nhân công. Công cuộc thanh lọc này đã đánh dấu việc siết chặt quản lý và vận hành dầu quốc doanh của chính phủ Venezuela.

Đến năm 2006, ông Chavez bắt đầu một xu hướng mạo hiểm khác: đầu tư tối thiểu vào cơ sở hạ tầng và tối đa hoá kiểm soát các mỏ dầu. Hoạt động sản xuất sa sút vì không có công nghệ tiên tiến của các công ty nước ngoài, chưa kể đến nguồn cung như bơm khí đốt thiên nhiên để tách dầu.

Năm ngoái, Caracas đã nhập 50.000 thùng dầu thô nhẹ chỉ để pha chế dầu thô nặng xuất khẩu. Nếu không có dầu thô nhẹ, dầu của Venezuela sẽ vô giá trị.

3. Các tàu chở dầu không thể hoạt động

Luật hàng hải chỉ cho phép tàu chạy trên các vùng biển lớn nếu đạt được các tiêu chuẩn về môi trường. Các tàu chở dầu cũ kỹ của Venezuela không đạt được các chuẩn đó.

PDVSA còn có hàng loạt vận đơn sạch tồn đọng không thể thanh toán. Theo tổng kết gần đây của hãng tin Reuters, thời gian chờ đợi đối với một số tàu chở dầu này có thể kéo dài đến hai tháng.

Có rất nhiều khả năng khi một cái lắc đầu từ phía đối tác Nga, PDVSA sẽ gặp nhiều rắc rối hơn. Vào tháng 10/2016, Sovcomflot - tập đoàn đường biển quốc doanh của Nga, đơn vị cung cấp 15% các tàu chở dầu của Venezuela từ chối cung cấp tàu chở dầu Venezuela vì vấn đề nợ cước phí chuyên chở. Con số nợ này lên tới 30 triệu USD.

Venezuela nợ tiền hầu khắp thế giới do không có khả năng thanh toán các tầu chở dầu đóng mới tại Iran và các xưởng đóng tàu tại Bồ Đào Nha. Các báo cáo về việc PDVSA không thể chi trả 404 triệu USD vào tháng 11/2016 đối với các trái phiếu đáo hạn vào năm 2021, 2024 và 2035 càng khiến các nhà đầu tư lo ngại.

4. Nga và Trung Quốc hỗ trợ Venezuela

Vấn đề đáng lo ngại nhất hiện này là Venezuela sẽ vỡ nợ chính phủ.

Năm 2016, Công ty dịch vụ đầu tư Moody's chuyên xếp hạng tín dụng đã thay đổi đánh giá về viễn cảnh kinh tế Venezuela từ ổn định đến tiêu cực vì nguy cơ vỡ nợ của nước này là khá cao.

Các ngân hàng quốc tế đã từ lâu giữ khoảng cách với Caracas bởi nước này áp dụng chính sách kiểm soát tiền tệ và các doanh nghiệp được chỉ thị mua tiền không phải thông qua các ngân hàng tư nhân mà thông qua chính phủ.

Năm 2014, Venezuela đã vay mượn gần 50 tỉ USD từ Trung Quốc và ước tính là 5 tỉ USD từ Nga khi giá dầu khả quan hơn. Theo thoả thuận, Venezuela sẽ phải hoàn trả các nước cho vay này bằng dầu mỏ và nhiên liệu. Theo báo cáo tổng kết của hãng tin Reuters vào tháng 1/2017 dẫn chứng các tài liệu nội bộ cho thấy các chuyến hàng chuyên chở đã bị trì hoãn đến tận 10 tháng.

Không thể chiết xuất thêm dầu và xuất dầu ít đi nhiều, PDVSA có ít sự lựa chọn để tăng luồng tiền mặt, khiến cuộc khủng hoảng nợ chính phủ đối với đất nước vốn lệ thuộc vào nguồn thu từ dầu mỏ ngày càng cao hơn.

5. Liệu cuộc khủng hoảng này có lan tới Mỹ?

Cái tên thường được nhắc đến gắn liền với cuộc khủng hoảng Venezuela là Citgo. PDVSA đã mua một công ty tinh chế dầu tại Houston vào thập niên 1980.

Cuối năm 2016, công ty quốc doanh này đã sử dùng gần một nửa cổ phiếu của mình ở Citgo để thế chấp vay vốn của công ty Rosneft của Nga.

Mặc dù các chuyên gia tài chính hoài nghi về khả năng Nga sẽ tiếp quản Citgo nếu PDVSA không có khả năng hoàn trả số tiền vay này, song các nhà làm luật Mỹ không tin chắc như vậy. Vào tháng 4/2017, các nhà làm luật thuộc Đảng Cộng hoà và Dân chủ tại Washington đã khuyến cáo Tổng thống Donald Trump về các thoả thuận kinh doanh bất thường. Theo các luật sư này, việc Nga thâu tóm công ty Citgo có thể đe doạ đến an ninh quốc gia Mỹ.

Cứu cánh duy nhất cho cuộc khủng hoảng tại Venezuela là khả năng tiến hành một cuộc bầu cử sớm hơn hạn định. Các cuộc biểu tình do các phe đối lập dẫn đầu có thể đủ gây sức ép buộc Tổng thống Maduro rời chức trước năm 2019. Khả năng thay đổi đường lối chính trị theo hướng đa dạng hoá kinh tế và sẵn sàng mở cửa thị trường cho các công ty nước ngoài có thể củng cố niềm tin của thị trường và cứu vớt Venezuela khỏi "chết chìm” trong chính biển dầu của mình./.

CTV Xuân Hương/VOV.VN
DW​
 

Việc làm nổi bật

Top