Trong bối cảnh giá dầu, giá khí biến động, một số vấn đề liên quan đến quản trị, điều hành công ty để thích ứng bảo đảm ổn định sản xuất luôn được Tổng công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí quan tâm.
Ông Lê Cự Tân, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (PVFCCo) đã chia sẻ một số vấn đề được các cổ đông và báo chí nêu.
Biến động giá khí và thuế VAT ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận
Từ năm 2014, giá khí cho sản xuất đạm Phú Mỹ được căn cứ trên 46% giá dầu FO bình quân/tháng tại thị trường Singapore và chi phí vận chuyển khí (tariff). Chi phí khí cho sản xuất đạm Phú Mỹ năm 2014 là 3.001 tỷ đồng, năm 2015 là 1.848 tỷ đồng (giảm so với năm 2014 là 1.153 tỷ đồng), năm 2016 là 1.657 tỷ đồng (giảm so với năm 2015 là 191 tỷ đồng), năm 2017 là 2.082 tỷ đồng (tăng so với 2016 là 425 tỷ đồng).
Về giá bán, đạm Phú Mỹ là mặt hàng phải kê khai giá theo quy định của Bộ Tài chính và theo công thức giá quy định, trong đó có căn cứ theo giá thị trường quốc tế và trong nước.
So sánh chi phí khí phải trả của năm 2016 thấp hơn năm 2015 là 191 tỷ đồng, tuy nhiên do giá bán năm 2016 giảm sâu, nên doanh thu đạm Phú Mỹ năm 2016 bị giảm so với 2015 là 1.042 tỷ đồng. Năm 2017 giá khí phải trả cho sản xuất đạm Phú Mỹ tăng 425 tỷ đồng so với năm 2016, nhưng sản lượng thấp hơn 2016 (do Nhà máy dừng bảo dưỡng hơn 1 tháng) nên dù giá tăng nhưng doanh thu Đạm Phú Mỹ chỉ tăng 238 tỷ đồng.
Trên cả thị trường thế giới, trong nước và đặc biệt đối với PVFCCo, giá dầu, giá khí và giá phân bón không phải lúc nào cũng diễn biến cùng nhịp, thuận chiều với nhau, mà có độ trễ, hoặc thậm chí ngược chiều nhau. Giá khí do PVFCCo phải trả được căn cứ theo giá bình quân của tháng, tức là giá dầu tăng thì ngay lập tức, giá khí nguyên liệu để sản xuất đạm tăng theo, trong khi giá phân bón không tăng ngay theo giá dầu, giá khí mà tùy thuộc vào tình hình thị trường, mùa vụ…
Tại các của hàng bán lẻ phân bón ngoài các chi phí như bốc xếp, giao nhận, chi phí trong lưu thông, phân phối, các cửa hàng bán lẻ sẽ tính toán các chi phí tài chính và bán nợ, các rủi ro do nông dân mất mùa và các yếu tố khác có thể dẫn tới không thu nợ được, để tính giá bán lẻ tùy thời điểm có thể cao hơn giá bán (bán sỉ, thanh toán trước khi nhận hàng) của PVFCCo khoảng từ 500-1.000 đồng/kg tùy vào quy mô, doanh số bán hàng của từng địa phương (ví dụ các cửa hàng bán lẻ ở miền Bắc do quy mô doanh số thấp, nên họ sẽ phải bán cao hơn để bù đắp đủ các chi phí, còn khu vực Tây Nam Bộ, Tây Nguyên doanh số bán hàng lớn thì lợi nhuận gộp họ cộng vào thấp). Do đó, không thể lấy giá bán lẻ của các cửa hàng bán lẻ để tính doanh thu cho PVFCCo vì như vậy không hợp lý.
Đồng thời, từ năm 2015 do phân bón không được khấu trừ thuế VAT nên làm tăng chi phí của PVFCCo qua các năm, năm 2015 là 290 tỷ đồng, năm 2016 là 258 tỷ và năm 2017 là 371 tỷ đồng, cũng là lý do khiến lợi nhuận giảm.
Nỗ lực cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh
Trước đây Việt Nam chỉ có Nhà máy đạm Hà Bắc công suất khoảng 160.000 tấn/ năm và Nhà máy Đạm Phú Mỹ 800.000 tấn/ năm, tuy nhiên từ năm 2013 trở lại đây Việt Nam có thêm hai nhà máy mới và Nhà máy Đạm Hà Bắc mở rộng, do đó cung đã vượt cầu (nhu cầu khoảng 2.000.000 tấn và năng lực sản xuất khoảng 2.600.000 tấn). Bên cạnh đó Việt Nam đã gia nhập các hiệp định thương mại, nên thuế nhập khẩu urea bằng 0%, do đó urea của các nước như Indonesia, Malaysia về Việt Nam rất thuận tiện với chi phí cước tàu dao động khoảng 15 -20 USD/tấn và khoảng trong vòng 1 tuần là hàng về đến cảng Việt Nam.
Đứng trước tình hình đó, PVFCCo đã tập trung đầu tư cho công tác marketing để duy trì thương hiệu, thị phần của Đạm Phú Mỹ. Do đầu tư cho marketing một cách hợp lý và hiệu quả nên thương hiệu Đạm Phú Mỹ vẫn là thương hiệu số 1 tại Việt Nam và giá bán của Đạm Phú Mỹ cao hơn các sản phẩm cùng loại.
Mặt khác, PVFCCo cũng xây dựng bộ sản phẩm phân bón Phú Mỹ bao gồm: Kali, NPK , DAP, sản phẩm hóa chất và hằng năm các sản phẩm này đã chia sẻ chi phí quản lý chung cho sản phẩm đạm Phú Mỹ và cũng góp phần tích cực vào doanh thu, lợi nhuận chung của PVFCCo. Cụ thể doanh thu và lợi nhuận trong hệ thống PVFCCo từ các sản phẩm phân bón và hóa chất khác ngoài đạm Phú Mỹ từ năm 2014 – 2015- 2016 – 2017, doanh thu lần lượt đạt: 3.312 tỷ đồng, 3.661 tỷ đồng, 2.955 tỷ đồng và 2.960 tỷ đồng và đem lại lợi nhuận lần lượt là 274 tỷ đồng, 172 tỷ đồng, 409 tỷ đồng và 313 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, PVFCCo cũng tối ưu các loại chi phí sản xuất, chi phí quản lý, bán hàng theo hướng hiệu quả nhất, và nhìn chung, dù sản lượng kinh doanh tăng, có thêm sản phẩm mới, nhưng tổng chi phí qua các năm của PVFCCo theo xu hướng giảm. Ngoài ra PVFCCo tích cực triển khai dự án mở rộng NH3-NPK từ năm 2015. Từ quý I/2018, khi đi vào vận hành thì đã chuẩn bị thị trường từ trước nên cả sản phẩm NH3 và NPK Phú Mỹ do nhà máy sản xuất đều tiêu thụ rất tốt.
Ông Lê Cự Tân, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (PVFCCo) đã chia sẻ một số vấn đề được các cổ đông và báo chí nêu.
Biến động giá khí và thuế VAT ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận
Từ năm 2014, giá khí cho sản xuất đạm Phú Mỹ được căn cứ trên 46% giá dầu FO bình quân/tháng tại thị trường Singapore và chi phí vận chuyển khí (tariff). Chi phí khí cho sản xuất đạm Phú Mỹ năm 2014 là 3.001 tỷ đồng, năm 2015 là 1.848 tỷ đồng (giảm so với năm 2014 là 1.153 tỷ đồng), năm 2016 là 1.657 tỷ đồng (giảm so với năm 2015 là 191 tỷ đồng), năm 2017 là 2.082 tỷ đồng (tăng so với 2016 là 425 tỷ đồng).
Về giá bán, đạm Phú Mỹ là mặt hàng phải kê khai giá theo quy định của Bộ Tài chính và theo công thức giá quy định, trong đó có căn cứ theo giá thị trường quốc tế và trong nước.
Trên cả thị trường thế giới, trong nước và đặc biệt đối với PVFCCo, giá dầu, giá khí và giá phân bón không phải lúc nào cũng diễn biến cùng nhịp, thuận chiều với nhau, mà có độ trễ, hoặc thậm chí ngược chiều nhau. Giá khí do PVFCCo phải trả được căn cứ theo giá bình quân của tháng, tức là giá dầu tăng thì ngay lập tức, giá khí nguyên liệu để sản xuất đạm tăng theo, trong khi giá phân bón không tăng ngay theo giá dầu, giá khí mà tùy thuộc vào tình hình thị trường, mùa vụ…
Tại các của hàng bán lẻ phân bón ngoài các chi phí như bốc xếp, giao nhận, chi phí trong lưu thông, phân phối, các cửa hàng bán lẻ sẽ tính toán các chi phí tài chính và bán nợ, các rủi ro do nông dân mất mùa và các yếu tố khác có thể dẫn tới không thu nợ được, để tính giá bán lẻ tùy thời điểm có thể cao hơn giá bán (bán sỉ, thanh toán trước khi nhận hàng) của PVFCCo khoảng từ 500-1.000 đồng/kg tùy vào quy mô, doanh số bán hàng của từng địa phương (ví dụ các cửa hàng bán lẻ ở miền Bắc do quy mô doanh số thấp, nên họ sẽ phải bán cao hơn để bù đắp đủ các chi phí, còn khu vực Tây Nam Bộ, Tây Nguyên doanh số bán hàng lớn thì lợi nhuận gộp họ cộng vào thấp). Do đó, không thể lấy giá bán lẻ của các cửa hàng bán lẻ để tính doanh thu cho PVFCCo vì như vậy không hợp lý.
Đồng thời, từ năm 2015 do phân bón không được khấu trừ thuế VAT nên làm tăng chi phí của PVFCCo qua các năm, năm 2015 là 290 tỷ đồng, năm 2016 là 258 tỷ và năm 2017 là 371 tỷ đồng, cũng là lý do khiến lợi nhuận giảm.
Nỗ lực cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh
Trước đây Việt Nam chỉ có Nhà máy đạm Hà Bắc công suất khoảng 160.000 tấn/ năm và Nhà máy Đạm Phú Mỹ 800.000 tấn/ năm, tuy nhiên từ năm 2013 trở lại đây Việt Nam có thêm hai nhà máy mới và Nhà máy Đạm Hà Bắc mở rộng, do đó cung đã vượt cầu (nhu cầu khoảng 2.000.000 tấn và năng lực sản xuất khoảng 2.600.000 tấn). Bên cạnh đó Việt Nam đã gia nhập các hiệp định thương mại, nên thuế nhập khẩu urea bằng 0%, do đó urea của các nước như Indonesia, Malaysia về Việt Nam rất thuận tiện với chi phí cước tàu dao động khoảng 15 -20 USD/tấn và khoảng trong vòng 1 tuần là hàng về đến cảng Việt Nam.
Đứng trước tình hình đó, PVFCCo đã tập trung đầu tư cho công tác marketing để duy trì thương hiệu, thị phần của Đạm Phú Mỹ. Do đầu tư cho marketing một cách hợp lý và hiệu quả nên thương hiệu Đạm Phú Mỹ vẫn là thương hiệu số 1 tại Việt Nam và giá bán của Đạm Phú Mỹ cao hơn các sản phẩm cùng loại.
Mặt khác, PVFCCo cũng xây dựng bộ sản phẩm phân bón Phú Mỹ bao gồm: Kali, NPK , DAP, sản phẩm hóa chất và hằng năm các sản phẩm này đã chia sẻ chi phí quản lý chung cho sản phẩm đạm Phú Mỹ và cũng góp phần tích cực vào doanh thu, lợi nhuận chung của PVFCCo. Cụ thể doanh thu và lợi nhuận trong hệ thống PVFCCo từ các sản phẩm phân bón và hóa chất khác ngoài đạm Phú Mỹ từ năm 2014 – 2015- 2016 – 2017, doanh thu lần lượt đạt: 3.312 tỷ đồng, 3.661 tỷ đồng, 2.955 tỷ đồng và 2.960 tỷ đồng và đem lại lợi nhuận lần lượt là 274 tỷ đồng, 172 tỷ đồng, 409 tỷ đồng và 313 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, PVFCCo cũng tối ưu các loại chi phí sản xuất, chi phí quản lý, bán hàng theo hướng hiệu quả nhất, và nhìn chung, dù sản lượng kinh doanh tăng, có thêm sản phẩm mới, nhưng tổng chi phí qua các năm của PVFCCo theo xu hướng giảm. Ngoài ra PVFCCo tích cực triển khai dự án mở rộng NH3-NPK từ năm 2015. Từ quý I/2018, khi đi vào vận hành thì đã chuẩn bị thị trường từ trước nên cả sản phẩm NH3 và NPK Phú Mỹ do nhà máy sản xuất đều tiêu thụ rất tốt.
Linh Đan
http://baochinhphu.vn
http://baochinhphu.vn
Relate Threads